Hỗ trợ trực tuyến

Quảng Cáo

Thống kê

Giải trí

[giaitri]

HOA CUỘC SỐNG

TRI TÚC THƯỜNG LẠC

Lòng tham muốn nhiều thì khổ nhiều, tham muốn ít thì khổ ít, không ham muốn thì không có khổ. Bớt một phần ham muốn là thêm một phần an vui.

Hình ảnh Ghim câu chuyện

Tri Túc Thường Lạc 
知足常樂

知足常樂背景圖片,高清圖庫,桌布素材免費下載| Pngtree

人不爭,一身輕鬆;
心不求,一生平靜;
事不比,一路暢通。
Nhân bất tranh, nhất thân khinh tùng;
Tâm bất cầu, nhất sinh bình tĩnh.
Sự bất tỷ, nhất lộ sướng thông;
Nghĩa:
Người không tranh giành thì bản thân thông thả, không bị gò bó;
Lòng không tham cầu thì một đời an bình, yên tĩnh;
Việc không so bì thì con đường tiến thân thư thái, rộng mở.
(St - Phật Thuyết)

 Liner-2a.png

Tri túc thường lạc là “biết đủ thường vui”.

Đây cũng là một ý với hai câu thơ của Nguyễn Công Trứ trong bài “Chữ nhàn - 閒”:

知 足 便 足 待 足 何 時 足
知 閒 便 閒 待 閒 何 時 閒

Tri túc tiện túc, đãi túc hà thời túc
Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn
Nghĩa là:
Biết đủ là đủ, đợi đủ bao giờ mới đủ?
Biết nhàn là nhàn, đợi nhàn bao giờ mới nhàn?


Tri túc thường lạc là câu rút gon của câu:

事能知足心常乐,

人到无求品自高。

Sự năng tri túc tâm thường lạc

Nhân đáo vô cầu phẩm tự cao

知足常乐书法字画书法名联事能知足心常乐,人到无求品自高。书法作品中堂、对联_冯雪林书法网

  Lòng tham muốn nhiều thì khổ nhiều, tham muốn ít thì khổ ít, không ham muốn thì không có khổ. Bớt một phần ham muốn là thêm một phần an vui. Phải biết gốc của tham dục là khổ mà ta cứ tưởng là vui, gốc của ái dục là khổ mà ta cho là sướng, thật tính của các pháp là vô thường mà ta nghĩ là thường. Phương pháp duy nhất để diệt trừ lòng tham muốn, là áp dụng theo lời Phật dạy, thực hành hạnh “thiểu dục và tri túc”.

  Câu này xuất phát từ câu đối tự khích lệ của Trần Tử Nha, thầy của Kỷ Tiểu Lam thời nhà Thanh: 事能知足心常泰,人到无求品自高.  Nếu có thể bằng lòng với những gì mình có, lòng sẽ luôn vui vẻ; nếu không có ham muốn, tâm tính sẽ tự nhiên cao thượng" và hãy xem đó là châm ngôn sống. Bằng lòng là hạnh phúc, nghĩa là nếu biết cách thỏa mãn, lòng sẽ luôn vui vẻ. "Nếu không có ham muốn, tâm tính sẽ tự nhiên cao thượng" có nghĩa là từ bỏ chủ nghĩa vị lợi và sự bốc đồng, không bị trói buộc bởi những thứ bên ngoài, không bị mây bay che mắt, và do đó đạt được một loại tự do và yên bình vượt ra ngoài thế giới. “Không ham muốn” ở đây không có nghĩa là không tiến bộ, cũng không phải là chán nản và buồn bã, cũng không phải là thái độ tiêu cực và triết lý tầm thường của việc lạc lõng và không thể che giấu sự nhàm chán, mà là cảnh báo mọi người hãy thoát khỏi những ràng buộc và phiền toái của danh lợi, và không nên ép buộc nó. Chỉ có không tìm kiếm, bạn mới có thể theo đuổi một điều gì đó một cách trọn vẹn.

 

Liner-2a.png

 

Bài Thơ “Chữ Nhàn” của Nguyễn Công Trứ

A Lotus Flower Growing Near SEA Sand Full Moon Is Calm Reflection Of In Sea  Backgrounds | JPG Free Download - Pikbest
Thị tại môn tiền náo,
Nguyệt lai môn hạ nhàn.(1)
So lao tâm lao lực cũng một đàn.
Người nhân thế muốn nhàn sao được!

Nên phải giữ lấy nhàn làm chước
Dẫu trời cho, có tiếc, cũng xin nài.
Cuộc nhân sinh chừng bảy tám chín mười mươi,
Mười lăm trẻ, năm mươi già không kể.

Thoắt sinh ra thì đà khóc choé,
Trần có vui, sao chẳng cười khì?
Khi hỉ nộ, khi ai lạc, khi ái ố, lúc sầu bi,
Chứa chi lắm một bầu nhân dục!(2)

Tri túc tiện túc, đãi túc hà thì túc,
Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn hà thì nhàn?(3)
Cầm kỳ thi tửu với giang san,
Dễ mấy kẻ xuất trần xuất thế?

Ngã kim nhật tại tọa chi địa,
Cổ chi nhân tằng tiên ngã tọa chi.(4)
Ngàn muôn năm âu cũng thế ni,
Ai hay hát mà ai hay nghe hát.

Sông Xích Bích buông thuyền năm Nhâm Tuất,
Ðể ông Tô riêng một thú thanh tao.(6)
Chữ nhàn là chữ làm sao?

____________
Theo Thơ văn Nguyễn Công Trứ, nxb. Văn Học, Hà Nội, 1983:
(1) Chợ trước cửa thì ồn ào, trăng soi trước cửa thì thanh nhàn.
(2) Lòng dục vọng của con người.
(3) Biết đủ thì đủ, đợi đủ khi nào cho đủ. Biết nhàn thì nhàn, đợi nhàn bao giờ cho nhàn.
(4) Chỗ ta ngồi ngày nay, người xưa đã ngồi trước ta rồi.
(5) Tô là Tô Ðông Pha, tác giả hai bài phú Tiền Xích Bích và Hậu Xích Bích tả tâm tình của nhà thơ khi bị biếm.

 

Liner-2a.png

 

Theo chiết tự nhàn 閒 là một chữ rất đẹp, rất xứng đáng để trở thành một thuật ngữ mỹ học. Ngày xưa nhà Nho rất đắc ý với hình ảnh tượng hình của nó, nên đã tạo ra một thành ngữ để miêu tả nó “nguyệt lai môn hạ nhàn” 月來門下閒 (bộ nguyệt 月đặt giữa bộ môn 門). Khi trăng đến dưới khung cửa đó là nhàn). 

 

Các tin khác